Xẹp thân đốt sống, vẹo cột sống, trượt thân đốt sống

Tỉ lệ hiện mắc và lưu hành gãy xẹp – lún đốt sống

Ở Mỹ, ước tính có 10 triệu người bị loãng xương và 34 triệu người có mật độ xương thấp – làm gia tăng nguy cơ loãng xương. Trong số 10 triệu người Mỹ bị loãng xương, có 8 triệu nữ giới và 2 triệu nam giới.

Gãy xẹp đốt sống là loại gãy thường gặp nhất ở các bệnh nhân bị loãng xương, ảnh hưởng khoảng 750 nghìn người mỗi năm. Gãy xẹp đốt sống ảnh hưởng khoảng 25% phụ nữ sau mãn kinh tại Mỹ. Tỉ lệ mắc tình trạng này tăng dần theo tuổi, ước tính ảnh hưởng 40% phụ nữ từ 80 tuổi trở lên. Mặc dù gãy xẹp đốt sống phổ biến ở phụ nữ, nhưng nó cũng là một vấn đề sức khỏe đáng quan tâm ở nam giới lớn tuổi.

Những người đã từng bị gãy xẹp đốt sống do loãng xương sẽ có nguy cơ bị gãy lần thứ hai cao hơn gấp năm lần. Đôi khi gãy xẹp đốt sống có thể không gây triệu chứng hoặc chỉ ít triệu chứng, nhưng nguy cơ gãy lần sau vẫn có thể xảy ra.

Nguyên nhân gãy xẹp – lún đốt sống

Gãy xẹp đốt sống xảy ra khi khối xương hoặc thân đốt sống bị xẹp, có thể gây đau dữ dội, biến dạng và mất chiều cao đốt sống. Loại gãy này thường xảy ra ở đốt sống ngực (phần giữa của cột sống) đặc biệt ở phần ngực thấp, và đốt sống thắt lưng. Loãng xương là nguyên nhân thường gặp nhất, nhưng loại gãy này cũng có thể do chấn thương hoặc ung thư di căn.

Ở những người bị loãng xương nặng, các hoạt động đơn giản hàng ngày – như bước ra khỏi bồn tắm, hắt hơi mạnh, nâng vật nhẹ – cũng có thể gây gãy xẹp đốt sống. Ở những người bị loãng xương mức độ trung bình, gãy xẹp đốt sống thường do tác động lực hoặc chấn thương, như té ngã hoặc cố gắng nâng một vật nặng. Những người có cột sống khỏe mạnh bị gãy xẹp đốt sống thường do chấn thương nghiêm trọng, như tai nạn xe hơi, chấn thương thể thao hoặc té cao.

Nguyên nhân gãy xẹp đốt sống do ung thư di căn cần được nghĩ đến ở những bệnh nhân dưới 55 tuổi, không có tiền sử chấn thương hay chỉ chấn thương rất nhẹ. Các xương ở cột sống là vị trí thường gặp cho nhiều loại ung thư di căn tới. Ung thư có thể gây phá hủy một phần cột sống, làm yếu xương cho đến khi nó bị xẹp lún.

Triệu chứng gãy xẹp – lún đốt sống

Gãy xẹp đốt sống có thể gây ra một hoặc nhiều triệu chứng dưới đây:

  • Đột ngột đau lưng
  • Tăng mức độ đau khi đứng hoặc đi lại
  • Giảm đau khi nằm ngửa
  • Hạn chế cử động cột sống
  • Có thể giảm chiều cao
  • Có thể biến dạng và tàn tật

Các biến chứng liên quan đến gãy xẹp đốt sống bao gồm:

  • Mất vững từng đoạn cột sống
  • Gù cột sống
  • Các biến chứng thần kinh

Mất vững từng đoạn cột sống

Khi gãy xẹp hơn 50% thân đốt sống,nguy cơ mất vững từng đoạn cột sống sẽ xảy ra. Các đoạn cột sống gắn kết với nhau để giúp cơ thể chịu được sức nặng, di chuyển và nâng đỡ toàn bộ cột sống. Khi một đoạn cột sống bị hỏng hoặc xẹp đến mức mất vững, nó có thể gây đau và làm giảm các hoạt động hàng ngày. Về sau, mất vững sẽ gây thoái hóa nhanh hơn cột sống ở vùng tổn thương.

Gù cột sống

Gù cột sống là một rối loạn thường gặp ở phụ nữ lớn tuổi, bị loãng xương và thường xuyên gãy xẹp đốt sống. Phần trước của đốt sống sẽ bị xẹp và tạo thành hình chêm do thiếu khoảng đốt sống bình thường. Gù làm cho cột sống ngực cong hơn bình thường.

Gù nặng có thể gây suy yếu và đau dữ dội. Biến dạng gù lưng về lâu dài có thể gây chèn ép tim, phổi, ruột. Nó cũng có thể gây mệt mỏi, khó thở và chán ăn.

Các biến chứng thần kinh

Nếu chỗ gãy làm cho một phần thân đốt sống chèn ép lên tủy sống, các dây thần kinh và tủy sống có thể bị tổn thương. Khoảng trống bình thường giữa tủy sống và ống sống có thể bị thu hẹp nếu các mảnh vỡ của thân sống bị đẩy vào trong ống sống.

Hẹp ống sống do gãy xẹp đốt sống có thể dẫn đến chấn thương thần kinh tủy sống ngay lập tức, hoặc gây vấn đề về sau do kích thích thần kinh. Thu hẹp khoảng trống này có thể dẫn đến thiếu máu và oxy đến tủy sống. Nó có thể gây tê và đau tương ứng với các dây thần kinh bị tổn thương. Các dây thần kinh có thể mất tính di động khi khoảng trống quanh nó bị giảm đi, từ đó gây kích thích và viêm dây thần kinh. ( Ở đây hiểu dây thần kinh bao gồm cả rễ thần kinh)

Chẩn đoán gãy xẹp – lún đốt sống

Chẩn đoán thường dựa vào bệnh sử, khám lâm sàng, ngoài ra chụp X quang, CT hoặc MRI có thể giúp củng cố chẩn đoán, tiên lượng, và xác định phương pháp điều trị tốt nhất cho bệnh nhân.

  • X quang : Là ứng dụng bức xạ nhằm tạo ra một phim hoặc hình ảnh của một phần cơ thể, cho thấy cấu trúc của cột sống và hình dạng chính của khớp. Nó cũng cho thấy sự thẳng hàng của xương, thoái hóa đĩa đệm, và những gai xương có thể kích thích các rễ thần kinh.
  • CT scan (chụp cắt lớp điện toán) : Là một chẩn đoán hình ảnh sử dụng tia X được xử lý qua máy tính, có thể cho thấy hình dạng và kích thước của ống sống, bên trong ống sống và các cấu trúc bao quanh nó. Kĩ thuật này có thể được thực hiện cùng với chụp tủy sống cản quang để cung cấp thêm thông tin. Kĩ thuật này lý tưởng để thấy chi tiết xương, bao gồm cả hẹp ống sống.
  • MRI (chụp cộng hưởng từ) : Là một kĩ thuật tạo ra hình ảnh các cấu trúc cơ thể trong không gian 3 chiều, dùng các từ trường mạnh và kĩ thuật máy tính, cho thấy tủy sống, rễ thần kinh và các vùng xung quanh, cũng như tình trạng phì đại, thoái hóa và khối u.
  • Đo hấp thụ tia X (năng lượng) kép (Dual-energy x-ray absorptiometry – DXA/DEXA) hoặc đo đậm độ xương ( http://yhoccongdong.com/thongtin/do-dam-do-xuong-(dexa-scan) ): Là tiêu chuẩn để đo mật độ khoáng của xương và có thể xác định tình trạng loãng xương. Kĩ thuật này không đau, nó sử dụng 2 nguồn tia X khác nhau hướng vào xương theo một tần số cho sẵn. DEXA scan có thể phát hiện những thay đổi nhỏ trong khối xương, nó cũng linh động vì có thể dùng để khảo sát cả xương sống và các chi. Đây là một kĩ thuật quét cột sống, hông, hoặc cả cơ thể, thời gian dưới 4 phút.

ĐIỀU TRỊ

Điều trị không phẫu thuật gãy xẹp – lún đốt sống

Thông thường, bệnh nhân bị đau nhiều do gãy xẹp đốt sống được điều trị bằng nằm nghỉ tại giường, dùng thuốc, nẹp hoặc phẫu thuật cột sống có xâm lấn, thường có hiệu quả hạn chế. Đau sau gãy cột sống cấp tính một phần là do cột sống mất vững tại vị trí gãy. Đau liên quan đến gãy xẹp đốt sống có thể hồi phục tự nhiên sau 3 tháng. Tuy nhiên, cơn đau thường giảm đáng kể chỉ sau vài ngày hay vài tuần.

Bệnh nhân có thể được khuyên nghỉ ngơi tại giường trong một thời gian ngắn, sau đó chỉ giới hạn một số hoạt động. Tuy nhiên, nên tránh bất động kéo dài.

Các thuốc giảm đau OTC (thuốc không cần kê toa) thường có hiệu quả giảm đau. Cả acetaminophen và thuốc kháng viêm không steroid (NSAIDs) đều được khuyên dùng. Thuốc giảm đau gây nghiên và các thuốc giãn cơ cũng thường được kê toa, nhưng chỉ trong thời gian ngắn, do nguy cơ gây nghiện của nó.

Có thể dùng nẹp lưng để nâng đỡ bên ngoài nhằm hạn chế cử động tại chỗ gãy, tương tự như tác dụng bó bột cho chân gãy. Loại nẹp lưng cứng có thể hạn chế cử động cột sống khá tốt, nhờ đó giúp giảm đau.

Trong khi điều trị ngay lập tức rất cần thiết nhằm giảm đau và giảm nguy cơ gãy, việc phòng ngừa gãy sau đó cũng rất quan trọng. Bác sĩ có thể kê toa các thuốc hỗ trợ xương như biphosphonates (ví dụ: Actonel, Boniva, và Fosamax) nhằm giúp ổn định và phục hồi xương gãy.

Nếu điều trị bảo tồn được chứng mình là không hiệu quả, có 2 phương pháp xâm lấn tối thiểu, gọi là tạo hình đốt sống (vertebroplasty) và tạo hình gù (kyphoplasty). Các tiến bộ hiện nay trong các kĩ thuật điều trị đã làm giảm sự cần thiết của phẫu thuật xâm lấn trong nhiều trường hợp.

Tạo hình đốt sống và Tạo hình vùng gù (hay Tạo hình đốt sống có bóng)

Tạo hình đốt sống để điều trị gãy xẹp đốt sống được giới thiệu tại Mỹ trong những năm đầu thập niên 90. Phương pháp này thường được dùng cho bệnh nhân ngoại trú, mặc dù một số bệnh nhân có thể ở bệnh viện qua đêm. Tạo hình đốt sống cần thực hiện trong 1-2 giờ, tùy thuộc vào số đốt sống được điều trị. Kĩ thuật này có thể được thực hiện với gây tê tại chỗ và thuốc an thần tiêm tĩnh mạch hoặc gây mê toàn thân. Với hướng dẫn của tia X, một kim nhỏ chứa xi-măng xương acrylic với công thức đặc biệt được tiêm vào đốt sống bị xẹp. Xi-măng sẽ cứng lại trong vòng vài phút, tạo độ vững chắc và ổn định cho đốt sống bị gãy. Hầu hết các chuyên gia cho rằng bệnh nhân có thể giảm đau nhờ tác dụng nâng đỡ cơ học và tính vững chắc của xi-măng xương.

Một kĩ thuật mới hơn, gọi là tạo hình vùng gù, liên quan đến một kĩ thuật được thực hiện trước khi tiêm xi-măng vào đốt sống. Đầu tiên, bác sĩ sẽ rạch 2 vết nhỏ và đặt một đầu dò vào khoang đốt sống bị gãy. Xương được khoan và một bong bóng (gọi là đệm xương) được chèn vào mỗi bên. Sau đó, hai bong bóng được bơm phồng với chất cản quang (là chất có thể thấy được dưới tia X) cho đến khi nó giãn ra đến độ cao mong muốn và được lấy ra. Sau đó, khoảng trống tạo bởi bong bóng sẽ được lấp đầy bằng xi-măng. Tạo hình vùng gù có thêm lợi ích là phục hồi chiều cao cột sống.

Các bệnh nhân với các tiêu chuẩn sau có thể được xem xét tạo hình đốt sống hoặc tạo hình vùng gù:

  • Gãy xẹp đốt sống do loãng xương ở bất kỳ vùng nào của cột sống, đã gãy trên 2 tuần, gây đau vừa đến đau nặng, và không đáp ứng với điều trị bảo tồn.
  • Ung thư di căn gây đau và đa u tủy (multiple myelomas)
  • U máu đốt sống gây đau (lành tính, u dị dạng mạch máu tạo thành từ các mạch máutân tạo)
  • Hoại tử xương đốt sống (vertebral osteonecrosis) (một tình trạng do thiếu máu nuôi một vùng xương, làm xương chết)

Củng cố thân xương sống bị yếu do bệnh lý trước phẫu thuật ổn định xương

Không nên thực hiện các kĩ thuật này đối với các bệnh nhân với bất kỳ tiêu chuẩn nào dưới đây:

  • Gãy xẹp đốt sống lành hoàn toàn hoặc đáp ứng hiệu quả với điều trị bảo tồn
  • Gãy xẹp đốt sống đã trên 1 năm
  • Xẹp trên 80 – 90% thân đốt sống
  • Cong cột sống (như gù, vẹo) do các nguyên nhân khác loãng xương
  • Hẹp ống sống (spinal stenosis) hoặc thoát vị đĩa đệm có chèn ép thần kinh hoặc tủy sống và mất chức năng thần kinh không liên quan với gãy xẹp đốt sống
  • Bệnh rối loạn đông máu không được điều trị
  • Viêm xương – tủy xương (osteomyelitis) (thường do vi khuẩn)
  • Viêm đĩa điệm (là tình trạng viêm đĩa đệm hoặc khoang đĩa đệm không do vi khuẩn)
  • Ống sống bị chèn ép đáng kể do mảnh xương vỡ hoặc u

Tỉ lệ biến chứng của tạo hình đốt sống và tạo hình vùng gù ước tính dưới 2% đối với gãy xẹp đốt sống do loãng xương và 10% đối với gãy xẹp đốt sống do ung thư ác tính. Lợi ích của điều trị phẫu thuật cần luôn cân nhắc cẩn thận so với nguy cơ. Mặc dù một tỉ lệ lớn bệnh nhân ghi nhận giảm đau đáng kể sau 2 kĩ thuật này, nhưng không đảm bảo rằng phẫu thuật có ích cho tất cả mọi người.

Bản quyền: Phòng khám chuyên khoa phục hồi chức năng NGỌC ĐỨC

Lên đầu trang