Đau dây thần kinh tọa (TKT) rất thường gặp, trường hợp đau nhẹ người bệnh vẫn đi lại, làm việc bình thường. Nếu đi lại nhiều, đứng nhiều, ngồi nhiều trong một ngày, đau có thể tái phát. Nếu đau nhiều thì khi chân dậm mạnh xuống đất, ho mạnh, hắt hơi, đi đại tiện rặn cũng đau. Đau nặng ảnh hưởng nhiều đến khả năng lao động.
Đau thần kinh tọa ảnh hưởng rất lớn đến sinh hoạt của bạn
Đau TKT là gì?
Là một dây thần kinh dài nhất cơ thể trải dài từ phần dưới thắt lưng đến tận ngón chân. Dây thần kinh chi phối các động tác của chân, góp phần làm nên các động tác đi lại, đứng ngồi của hai chân.
Đau dây thần kinh biểu hiện đặc trưng bằng đau lan dọc xuống phía đùi theo rễ thần kinh lưng 5 (L5) và rễ thần kinh sống 1 (S1). Nếu rễ thần kinh L5 bị tổn thương thì có hiện tượng đau dọc từ lưng eo phía ngoài xuống ngoài động mạch cẳng chân xuống tận ngón chân út. Nếu rễ thần kinh S1 bị tổn thương thì đau dọc ra phía sau mông, thẳng xuống sau đùi, xuống phía sau bắp cẳng chân tới phía ngoài bàn chân. Nếu đau TKT trên (thần kinh hông) thường đau tới phía trên đầu gối. Nếu đau dây TKT dưới thì đau tới mắt cá ngoài bàn chân.
Đau dây TKT rất thường gặp, trường hợp đau nhẹ người bệnh vẫn đi lại, làm việc bình thường. Nếu đi lại nhiều, đứng nhiều, ngồi nhiều trong một ngày, đau có thể tái phát. Nếu đau nhiều thì khi chân dậm mạnh xuống đất, ho mạnh, hắt hơi, đi đại tiện rặn cũng đau. Đau nặng ảnh hưởng nhiều đến khả năng lao động.
Ai có nguy cơ bị bệnh?
Đau dây TKT gặp ở tất cả các lứa tuổi cả nam và nữ, tuy nhiên thường gặp ở lứa tuổi từ 30-60, nam mắc nhiều hơn nữ, những người lao động chân tay nặng nhọc hay mắc bệnh này. Mang vác và lao động nặng ở tư thế sai, gò bó, rung xóc, chấn thương, các động tác thay đổi tư thế đột ngột là yếu tố thường xuyên nhất làm khởi phát bệnh, ngoài ra yếu tố tâm lý cũng đóng vai trò nhất định thúc đẩy xuất hiện và tái phát bệnh.
Một số nghề nghiệp có tư thế làm việc gò bó như ngồi, đứng nhiều, công nhân bốc vác, nghệ sĩ xiếc, balê, cử tạ, thể thao v.v… dễ xuất hiện bệnh và tái phát bệnh nhiều hơn.
Tại sao lại bị đau TKT ?
Các nguyên nhân gây đau TKT: do tổn thương ở cột sống thắt lưng gây chèn ép rễ thần kinh, nhưng nguyên nhân chính là do thoát vị đĩa đệm vùng cột sống thắt lưng. Ngoài ra còn có các nguyên nhân khác là các tổn thương thực thể vùng thắt lưng cũng như là các dị dạng bẩm sinh (gai đôi, quá phát mỏm ngang các đốt sống thắt lưng) hay là tổn thương mắc phải ở vùng cột sống thắt lưng (chấn thương, thoái hóa cột sống thắt lưng, u, viêm cột sống dính khớp, viêm đốt sống do nhiễm khuẩn v.v…).
Triệu chứng biểu hiện là gì?
Đa số đau TKT một bên, người bệnh có tư thế ngay lưng hay vẹo về một bên để chống đau. Tùy theo tổn thương mà người bệnh có thể không nhắc được gót hay mũi chân, dần dần xuất hiện teo cơ đùi, mông, cẳng chân bên tổn thương.
Khi bệnh nặng chân tê bì mất cảm giác, có thể đái dầm, ỉa đùn.
Điều trị bệnh ra sao?
Đau TKT phải kết hợp các biện pháp nội khoa, đông y, ngoại khoa, tâm lý, vật lý trị liệu và phục hồi chức năng. Phẫu thuật có chỉ định trong một số trường hợp. Trong thời gian đang đau cấp, hoặc đợt cấp của đau TKT mãn, người bệnh cần nghỉ ngơi tuyệt đối trên giường và bất động, tránh mọi di chuyển hoặc thay đổi tư thế làm căng dây thần kinh. Người bệnh cần nằm trên giường phẳng và cứng, nằm ngửa, hông và gối hơi gấp, nếu đau nhiều có thể nằm co chân.
– Thuốc điều trị cần dùng các thuốc chống viêm không steroid như voltaren, ticotil, mobic… và thuốc chống hư khớp như piascledin. Nếu người bệnh có đau dạ dày tá tràng phải dùng kèm theo các thuốc băng niêm mạc dạ dày như phosphalugel, gastropulgit hay thuốc ức chế bài tiết dịch vị dạ dày như famotidin, omeprazol, có thể dùng các thuốc kết hợp khác như thuốc giảm đau paracetamol, efferalgan codein, diantalvic, thuốc giãn cơ myotral, mydocalm, myonal v.v…
– Vật lý trị liệu: chườm nóng, chiếu tia hồng ngoại laser, sóng ngắn, từ trường, điện châm v.v… Có thể dùng liệu pháp tắm bùn, đắp bùn, tắm nhiệt, tắm suối khoáng…, kéo giãn cột sống bằng dụng cụ cho trường hợp lồi hoặc thoát vị đĩa đệm.
– Điều trị đông y: xoa bóp châm cứu, ấn huyệt, thủy châm.
– Điều trị ngoại khoa được chỉ định khi: điều trị nội khoa không đỡ sau 6 tháng, hoặc có biến chứng liệt, teo cơ, rối loạn cơ tròn, cũng có thể phẫu thuật khi đau dữ dội, đau tái phát nhiều lần, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt và lao động.
BS. Đinh Thị Thanh
(Theo báo Sức khỏe và đời sống số 833)